Cafe 17
Bằng một cách nhàm chán nào đấy, những câu chuyện về Cafe cứ trở lại trên những trang blog của tôi. Như những gì mênh mông của cuộc đời, cảm khái về Cafe là một điều "thường xuyên" trong từng ngày trôi qua mà bản thân tôi cũng không hình dung hết được về độ gắn kết của chúng với đời mình. Thực ra mà nói, với tôi Cafe không phải là một thức uống, không thuộc về ẩm thực hay gì đấy đại loại thế. Nó là một thứ dường như hữu hình hơn, cũng vô hình hơn. Chập chờn trong mọi ngõ ngách cuộc đời.
Mấy năm làm Barista ở Marche đã thay đổi thế giới quan về Cafe của tôi đến từng chi tiết. Trước mùa hè 2014 tôi có lẽ chỉ đơn giản là một "con nghiện Cafe" không hơn không kém dù cứ tự nhận là một tín đồ của nó. Mấy năm sau đó và đến bây giờ, Cafe với tôi mà nói, đã không còn là một tôn giáo, vì nó trở nên gần hơn với cuộc đời, chân thực hơn, vì thế cũng gần gũi hơn, như một thói quen.
Hồi xưa đi làm bồi hay đi bán bánh mỳ ở Le Crobag thì cũng có có cả bán Cafe. Nhưng vào làm Barista ở Marche một thời gian thì mới tạm xem là một cuộc tiếp xúc với Cafe đúng nghĩa. Marche chỗ tôi làm là một tổ hợp nhà hàng khách sạn tiệm bánh các thể loại nên dĩ nhiên là có một khu chuyên việc rang xay Cafe. Tôi không làm ở đấy nhưng thỉnh thoảng có đi qua để lấy Cafe bột nên cũng quen vài ba người ở đó. Alex dạy tôi nhiều điều về cách chọn hạt Cafe, cách ngửi độ cháy của hạt espresso và độ lửa dành cho americano. Tôi cũng chỉ học qua qua vì cảm thấy không hứng thú lắm. Vì tôi thích phần pha chế hơn.
Tôi học pha chế với Fabian trong khoảng mấy tháng. Từ các nguyên tắc về bọt sữa, nhiệt độ sữa, nhiệt độ nước sôi, các loại ấm ủ Cafe filter và áp suất ép cho bột espresso hay lượng bột Cafe tiêu chuẩn cho một tách espresso. Những thứ đấy nghe qua thì phức tạp nhưng đó là quy chuẩn bắt buộc với những hàng Cafe chuyên nghiệp hoặc những hàng Cafe lấy tiêu chí tinh tế và sang trọng làm đầu. Sau đó thì học tỉ lệ và định nghĩa về Cappucino, Latte, Espresso, Mocca, Le Che, Auf lait, Wiena.... Người Đức thường nói đùa trên thế giới chỉ có 2 loại Cafe: Cafe đen và Cafe với sữa. Thê nên người Đức bình dân mà nói thì không chú trọng nhiều về sự khác biệt của các loại Cafe, miễn rẻ và nhiều là được. Người Đức lớn tuổi uống Cafe không quá cầu kỳ, như ông bà mình uống nước trà thôi, miễn là Cafe thơm và sữa đủ nhiều. Giới trẻ thì chú ý hơn đến Cappucino và Latte khác nhau chỗ nào. Và dù gì đi nữa thì người châu Âu uống Cafe thường với nhiều đường sữa, đến phát ngấy, mà nếu bạn có một lần nhìn thấy thì sẽ chẳng biết đó có còn gọi là Cafe hay không nữa.
Về sau khi tôi quen với các ca làm việc dài, vì phải đứng pha chế một mình kể cả lúc đông khách nên sự tỉ mỉ cho từng tách Cafe dần giảm đi. CÓ đôi lần cảm thấy áy náy vì có thể tách Cappu quá nhiều bột socola hay tách Latte Caramen quá nhiều sữa, mỗi lần như thế tôi thường là ngay một tách mới và đổi cho khách. Vì cảm thấy rất yêu quý nghề này nên trong thâm tâm tôi chưa bao giờ muốn làm cho ai một tách Cafe dở tệ cả. Có vài lần ca làm 9 tiếng quá mệt mỏi, tôi cũng thấy oải nhưng đứng cạnh máy cafe, mùi thơm của hạt Cafe dậy lên, mệt mỏi cũng tan biến một phần.
CHỗ tôi làm có mấy quán Cafe liền rải rác trong sân bay, tôi thường luân chuyển giữa các quán vì đặc thù của các quán cafe sân bay là đông hay vãn tùy giờ và tùy mùa. Thế nên với mỗi view ở sân bay Hannover lại gắn với từng kỷ niệm, từng loại Cafe, từng chỗ hỏng hóc của những máy Cafe cũ kỹ và cả những khách hàng đáng yêu hay đáng ghét. Những câu chuyện tưởng như vừa hôm qua, thế mà đã vào quá khứ được một thời gian rồi.
Việc đi làm thêm như một Barista tất nhiên thay đổi cách tôi uống Cafe hàng ngày, ở nhà ở trường hay ở chỗ làm mới.
TRước đây như mọi người Việt Nam, tôi uống Cafe Việt Nam mang sang, pha filter, thỉnh thoảng uống nâu đá.
Sau khi ở ĐỨc nửa năm tôi bắt đầu quen với Cafe Đức pha trong filter bằng giấy cỡ số 4. Thực ra nó gần với một kiểu pha chè thì hơn là pha Cafe theo đúng nghĩa vì bột Cafe cho nước nóng chảy qua, đơn giản thế thôi chứ không có máy ép.
Sau một năm tôi từ bỏ Cafe Việt am, xếp filter bằng inox mua ở chợ châu Á vào tủ, và từ bấy đến nay không còn mua sữa đặc nưã.
Sau hai năm thì tôi bắt đầu làm ở Marche. Từ đó tôi không uống cafe filter giấy nữa, mà bắt đầu mua các loại máy Cafe cơ nhỏ. Đến nay đã có 3 cái: Senseo của Philip dành cho Cafe-Pad. Lavazza dành cho Cafe-Kapseln và từ tháng 10 năm ngoái lại nay thì tôi chuyển sang De Longi với Cafe Kapseln.
Ở chỗ làm mới tôi không bao giờ uống Cafe vì ở đó người ta chỉ có máy bán hàng tự động.
Ở trường mấy bác bán hàng Cafe ở thư viện Conti, ở HGB, ở Hauptmensa hay Leiter của Campus Suite đều quen mặt tôi. Hôm nào thấy mặt anh châu Á đầu đen này cũng hỏi rõ to, "immer noch Ammericano ohne Milch" và tôi bao giờ cũng được ưu tiên nhận Cafe sớm nhất , trả tiền và rời đi nhanh dù hàng người rất đông. Hôm nọ rảnh rỗi ngồi với T. tính tiền Cafe trong mấy năm học đã được đến tiền nghìn €, tức là mấy chục triệu tiền mình. Nghĩ cũng phải, vì mỗi tách Cafe ở Đức rẻ nhất rơi vào tầm 1,1-1,2€ nên trong gần 5 năm qua ở cái thành phố Hannover này, tôi tốn từng ấy tiền vào Cafe cũng là hợp lý, vì gần như thứ 2 đến thứ 6 nào trong tuần cũng ở trường, chưa kể thứ 7 thỉnh thoảng có ở thư viện hoặc ở lab.
Thực ra tôi uống Cafe không phải vì quá nghiện. Tôi cũng thường không uống hết cốc Cafe, mà người Đức luôn cho rằng như thế là lãng phí. Với tôi mà nói, Cafe nhiều khi là nói về mùi hương. Nhâm nhi một vài ngụm Cafe đôi khi là đã đủ cho 45 tiếng cật lực làm việc phía trước. Nhiều người nghĩ rằng tôi uống Cafe như nước lã nhưng thực ra chẳng phải thế bao giờ.
Nhữung câu chuyện về Cafe còn rất nhiều. Nhưng hôm nay mỏi tay rồi.
Và với tôi, nếu phải rời xa châu Âu để quay về quê hương bản quán, thì điều tôi nhớ nhất ở đây không gì khác, mà có lẽ chính là Cafe.
Nhận xét
Đăng nhận xét