Vài điều suy ngẫm về văn hóa và văn minh Việt Nam

Tôi là một người nhiệt thành tìm hiểu về lịch sử dân tộc Việt Nam, từ ngày bé cho đến bây giờ. Tôi nghĩ mình tìm hiểu đủ để không lạc lối trước những điều vẫn được người ta viết và tranh luận, như là "nước Việt có thực sự có đến 4000 năm lịch sử", "vua Quang Trung có thực sự đến đại phá 30 vạn quân Thanh"...v.v. Và một điều quan trọng không kém chính là những thành tựu văn hóa và nền văn minh của dân tộc Việt Nam trong quá khứ. Đó là một câu hỏi luôn luôn mới mẻ, vì theo năm tháng, tôi lại đọc và biết thêm nhiều sự thật về dân tộc mình.

Như Entry liền trước tôi chép lại nguyên văn một bài nghiên cứu của ông Vương Trí Nhàn, với nhan đề là cái nhìn của một người ngoại quốc về xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 17-18. Những điều ghi trong đó, với bản thân tôi mà nói, chúng không hề bất ngờ, không hề tự ái hay xấu hổ dù tôi là người Việt, ngược lại tôi cảm thấy đáng đọc và đáng suy ngẫm.

Có một điều phải thừa nhận, rằng kể cả không tính đến cuộc Cách Mạng Công Nghiệp lan khởi từ nước Anh, thì các nước châu Âu quả thực có một nền văn minh và những phương thức cùng tư liệu sản xuất vượt trội đất nước ta, tính từ năm 1600 trở đi. Năm 1769, khi đầu máy hơi nước được phát minh ở Anh, cùng với đó là những đoàn hải hành của các nhà truyền đạo châu Âu tung hoành khắp thế giới, thì cái xã hội phong kiến Đại Việt của vua Lê chúa Trịnh thực sự thế nào, đã được miêu tả trong bài viết của vị giáo sĩ kia. Chiến loạn khiến người dân chỉ có thể lo cho bữa ăn của mình, mà không bao giờ nghĩ được đến văn minh văn hóa trong vài trăm năm. Có nghĩa là, ở thời điểm đầu thế kỷ 19, khi nhà Nguyễn thành lập, thì cơ bản văn minh Việt Nam đã tụt hậu rất rất nhiều so với thế giớ. Cái xã hội và nền văn minh ấy tiếp tục ngủ quên cho đến năm 1858, khi người Pháp đến xâm lược. Và rồi, theo dòng chảy thời gian, cho đến tận năm 1945, ngoại trừ một vài chốn thị tứ như Hà Nội, Huế, Sài Gòn được người Pháp tạm "khai sáng" với tàu hỏa, xe hơi, còn lại đại bộ phận lãnh thổ và cư dân Việt vẫn chìm trong cái màn tăm tối ấy, một sự thật đau lòng cho một đất nước mà vua Minh Mạng từng tự nhận "là kẻ kế thừa văn hóa Khổng giáo sau khi nhà Minh sụp đổ". Lỗi lầm chắc chắn thuộc về mấy trăm năm nồi da xáo thịt hai miền đàng trong đàng ngoài, cùng với chế độ phong kiến mục ruỗng và thối nát.

Từ những điều trên, chúng ta đi đến nhận định rằng, cho đến năm 1945, nghĩa là mới chỉ ngót nghét 70 năm trước, ở một quá khứ chưa xa, thế giới đã làm ra bom nguyên tử, mở đường du hành vũ trụ, tiến xa thật xa về hóa học và y sinh, thì cả đất nước Việt Nam vẫn chìm trong bóng tối của thế kỳ 17,  với phương thức sản xuất, tư liệu sản xuẩt, tích lũy xã hội không khác gì so cới 200 năm trước. (vì quả thực rằng sau mấy trăm năm nội chiến cộng với một thế kỷ bị bóc lột và đô hộ, dân tộc ta đã tự tay đốt bỏ hết những cơ hội để canh tân, để vượt lên trong khi các nước phương Tây lại làm quá tốt điều đó.) Như đã nói, dù tàu hỏa xe hơi, điện đàm, máy chiếu, ở thời điểm ấy có xuất hiện ở Việt Nam thì cũng là do người Pháp mang đến để phục vụ việc khai thác thuộc địa, chứ người Việt hoàn toàn chẳng được hưởng lợi gì về những điều ấy khi mà đại bộ phận dân tộc Việt nam vẫn sống dưới ách áp bức lầm than và nghèo khổ của thực dân.

Tại sao tôi lại nói về điều này ?

Có hai vấn đề ở đây.

Thứ nhất, nó trả lời câu hỏi tại sao Việt Nam không thể tiến được xa như Nhật Bản dù nước Nhật bị tàn phá khủng khiếp sau năm 1945. Đơn giản là không cùng xuất phát điểm. Đầu thế kỳ 20, Nhật Bản đã trải qua 20 năm canh tân của Minh Trị, đánh bại hai đế quốc là Nga Sa hoàng và Mãn Thanh trên mặt biển, trở thành bá chủ ở Đông Á. Đầu thế kỳ 20, Việt Nam bị Pháp đô hộ, và nền văn minh Việt Nam tăm tối như thế nào, thì xin hãy đọc "việc làng" của Ngô Tất Tố, hay các thiên truyện ngắn hiện thưc của Nguyễn Công Hoan thời kỳ này. Rồi Việt Nam tiếp tục 30 năm chiến loạn, mất mát và tổn thương không cùng trong khi Nhật Bản cứ thế khôi phục nền kinh tế nhanh như vũ bão. Nói thế có nghĩa là dù chủ quan hay khách quan, chúng ta vốn đã không cùng "xuất phát điểm" với người Nhật, nên đừng hỏi tại sao đến năm 2016 này chúng ta lại tụt sau họ xa đến thế.

Thứ hai, nó giải thích gần như tất cả tình hình xã hội và văn hóa Việt Nam hiện tại, với những phẩm chất, thói hư và tật xấu.
Ở đây tôi không nói đến chính trị. Chính trị là một vấn đề lớn, không thể bàn rõ chỉ qua vài từ. Và quan trọng hơn tôi không tin thể chế có thể tháo được nút thắt cho cả một dân tộc, cũng như tôi luôn cho rằng tình trạng suy đồi đạo đức ở Việt Nam hiện tại không đến từ thế chế chính trị. Ví dự như Malaysia, Philipin hay như Thái Lan, khác biệt thể chế so với Việt Nam, nhưng rồi cũng chỉ dừng lại ở cái bẫy thu nhập trung bình, chẳng thế nào bứt lên hẳn thành những con rồng châu Á. Bởi vậy, ở đây tôi chỉ bàn đến văn hóa và văn minh. 
Trở lại vấn đề văn hóa văn minh. Bạn thử tưởng tượng một đứa trẻ mười tuổi được cho một cái xe máy và lái nó ra đường, hậu quả sẽ lớn như thế nào. Đó cũng tương tự như nền văn minh nông nhiệp lạc hậu của Việt Nam giữa thế kỷ 20, chập chững chạm ngưỡng công nghiệp, rồi bỗng nhiên văn hóa văn minh tây phương tràn vào. Tất cả dường như là đến một cách quá đột ngột, người dân ở đây tiếp nhận thụ hưởng những điều mới mẻ, nhưng không qua những cách tân và biến động xã hội, cũng như thời kỳ phát triển văn minh dài dặc như xã hội phương Tây. Thế rồi quần jean áo sơ mi, ô tô xe máy tràn vào cái xã hội á đông ấy, thay đổi quan niệm của mọi người về giàu nghèo, về sở hưũ, về những nền tảng đạo đức - trụ cột của xã hội á đông. Tôi nghĩ, điều đó lý giải vì sao những thế hệ người Việt gần đây nhanh chóng chênh vênh trước những đổi thay chóng mặt của văn minh và thế giới để rồi cảm thấy tôn sùng những giá trị vật chất, trong khi những thế hệ trước lạc lõng ngay chính trên mảnh đất quê hương mình mà không biết bấu víu vào điều gì. Một cuộc biến động lớn lao diễn ra ngay trên đất nước Việt Nam, mà chính người Việt không biết phải đi về đâu.

Giống như bản thân tôi hồi mới lớn, tôi ngày ấy nhìn quanh không có một ai để hỏi về những chữ nho khắc trên cửa nhà thờ, hay những văn bia cũ kỹ, tôi ngày ấy không bao giờ có thể hiểu được vì sao người ta ngày xưa mặc áo the khăn đóng, nghe tuồng chèo cải lương. Xã hội Việt Nam nhảy vọt nhiều bước trong thế kỳ 20, không biết như thế là tốt hay không, nhưng thực sự chúng khiến nhiều giá trị cũ không được bảo tồn và phát triển. Điều tương tự xảy ra với những giá trị mới, khi người ta chấp nhận chúng mà không hiểu bản chất, để rồi xung đột dữ dội với những thứ của cha ông để lại. Người Việt đầy cô đơn và mâu thuẫn ngay giữa mảnh đất của mình. Người ta không thể đi về phía trước nếu không biết bản thân mình là ai.

Có một câu chuyện, rằng ở Nhật những người già vẫn luôn gìn giữ những bản sắc văn hóa của thế hệ cũ, dù luôn được hỏi tại sao họ phải cố làm như thế, khi bây giờ giới trẻ không hứng thú với chúng. Những người được hỏi chỉ vui vẻ nói rằng, bây giờ giới trẻ không thích thì khi về già họ sẽ thích. 
Tôi cho rằng đó là một điều rất đúng. Ngày trước tôi không bao giờ nghe chèo hoặc nghe hát quan họ. Bây giờ, tôi có thể nghe được những thể loại âm nhạc ấy mà không thắc mắc vì sao người ta lại nghe nó, thậm chí tôi còn cảm thấy thú vị với chúng. Phải. Chúng ta là người Việt Nam, trong huyết quản chúng ta có những ADN của người Việt, với những điều tích lũy qua ngàn năm lịch sử. Người Việt còn gìn giữ những điều đặc trưng của dân tộc, thì hồn nước luôn còn.

Nhưng, có một sự thật là để làm được như thế thì phải có điều kiện kinh tế, cũng như là nâng cao sự hiểu biết của mọi tầng lớp xã hổi. Hai điều đơn giản, nhưng thật khó, chắc chắn rồi.

Tóm gọn lại, ở đây tôi không muốn đổ lỗi cho ai hay điều gì, chỉ là muốn đi tìm một chân tướng cho câu hỏi tại sao bây giờ xã hội Việt Nam có nhiều những vấn đề về đạo đức và văn hóa như thế, mặc dù ta luôn nhận rằng đất nước có nghìn năm văn hiến. Có thể một vài người theo dõi blog sẽ không thảo mãn, nhưng tôi vốn không có ý tranh luận về chúng. Tôi chỉ nói ra quan điểm của mình, một kiểu tự vấn bản thân trước những câu hỏi.

Đôi lời quê mùa dông dài, cũng không có ý tranh biện với ai, chỉ là ghi lại để về sau nhắc nhở con cháu luôn luôn ôn cố tri tân, biết mình đến từ đâu, có những gì và sẽ đi đến đâu. Tôi nghĩ, điều ấy quan trọng, với mọi dân tộc trên thế giới.

NGN - 20.12.16

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thịnh tình khó khước.

6 Năm. Về chúng ta.

đầu năm nói chuyện nhân sinh (st)