Những khi An Nam mô phỏng Hoa phong - Trích "Nam văn hội quán"
Từ khi Đinh Minh Hoàng xưng Đế, lịch đại đế vương xứ An Nam đều xưng làm Hoàng đế, đặt niên hiệu, xưng Thiên tử, chế độ riêng biệt.
Tuy là họ có ý niệm ngang hàng Bắc triều, nhưng nhất cử nhất động của họ lại dùng chính những khái niệm, Hoa phong của Bắc triều. Đây không phải vì “nghìn năm Bắc thuộc nên mới thế”, một cách “đành phải vậy” trong tiềm thức của nhiều người Việt hiện đại. Thực tế, dù có là thời kì độc lập, triều đình Việt Nam vẫn không thôi xem Trung Hoa là nền tảng, mặc dù sau khi du nhập, An Nam triều đình vẫn có những quy tắc riêng (có thể thấy rõ nhất như nhà Nguyễn).
.
.
.
Sau đây là vài mốc chứng tỏ sự “hướng đến Trung Hoa, càng Hoa càng tốt” của người An Nam từ khi độc lập.
*Kỷ Hợi (939), Tấn Thiên Phúc năm thứ 4, mùa xuân, Ngô Quyền bắt đầu xưng Vương, đặt trăm quan, định phục sắc. Lịch đại triều đình Bắc triều, chỉ có thời Đường mới bắt đầu quyết định màu áo làm thứ bậc quan viên, theo thứ tự là: tía, đỏ, lục và xanh.
*Tiền Lê Đế Lê Hoàn thời, Tống Cảo đại sứ nhà Tống đến thăm:”Khi có yến hội, người vào dự tiệc đều phải cởi đai, mũ”. Đai và mũ có từ quy chế đời Đường.
*Tiền Lê mạt thời (1006), Lê Đế Long Đĩnh ra chỉ:”Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống.”
*Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn, hoàn toàn dựa vào tích xưa thời Tam Đại: “Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn [...]Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu [...]”
*Kỷ Hợi (1059), Chương Thánh Gia Khánh năm thứ 1, Mùa thu, tháng 8, vua ngự điện Thủy Tinh cho các quan vào chầu, truyền các quan đội mũ phốc đầu, đi hia, mới cho vào. Đội mũ phốc đầu, đi hia bắt đầu từ đấy.
*Ngư đại, một quy chế từ thời Đường, ban đầu là một tấm phù bằng gỗ hình cá, bỏ trong chiếc túi (đại) nên gọi như vậy. Nhà Tống noi theo, nhưng dùng vàng, bạc trực tiếp tạo hình thành hình cá. Dùng cho các quan lớn, hoặc đặc biệt gia thưởng. Phan Huy Chú khi ghi chép “Lịch triều Hiến chương loại chí”, đã xác nhận thời Lý-Trần có quy chế này, gọi là “Tứ tử Kim ngư đại” (ban cho áo màu tía và Kim ngư đại), hay “Tứ phỉ Ngư đại” (ban cho mặc áo bào đỏ và Ngư đại). Quan văn có quy chế này, quan võ không theo, nhưng có thể có một thứ tương tự gọi là Hổ phù (Phạm Ngũ Lão từng được ban).
*Các Hoàng đế nhà Trần hay nhường ngôi để lên làm Thái thượng hoàng, trong tôn hiệu đều có chữ Nghiêu (堯); là tên của Đế Nghiêu huyền thoại, người được xem là Thánh quân của Trung Hoa cổ, và ông nổi tiếng với việc nhường cho người đức độ là Đế Thuấn.
*Bính Tý (1396), Quang Thái năm thứ 9, tháng 6, quy định lại kiểu mũ, là ý của Hồ Quý Ly (khi đó vẫn gọi là Lê Quý Ly). Các tụng quan chức tước từ lục phẩm trở lên dùng mũ Cao Sơn, chánh lục phẩm được thắt đai, đi hia. Về sắc mũ, chánh thì sắc đen, tòng thì sắc xanh. Người tôn thất thì đội mũ Phương Thắng màu đen. Võ quan tước lục phẩm đội mũ Chiết Xung, tước cao mà không có chức thì thắt đai, đội mũ Giác Đính, tứ thất phẩm trở xuống đội mũ Thái Cổ. Vương hầu đội mũ Viễn Du; Ngự sử đài đội mũ Khước Phi. Những loại mũ trên, tất cả đều là những quan mão của thời Hán, chứng tỏ tâm lý cực kì sùng cổ, noi theo Hán triều của Quý Ly.
*Hồ Quý Ly tự xưng con cháu Đế Thuấn, nên tự đặt quốc hiệu Đại Ngu (Ngu 虞; là tên thời đại của Đế Thuấn), lại đổi qua họ Hồ vì tự xưng là con cháu Hồ Công Mãn (tức Quy Mãn, quân chủ nước Trần, tương truyền cũng là người đầu tiên lấy họ Hồ).
*Lê Thái Tổ Lê Lợi vừa lên, châm chước chế độ nhà Hồ, quan lại dùng mũ Cao Sơn, áo màu tía/ đỏ. Nhưng Lê Thái Tông Lê Nguyên Long lên ngôi, không nhìn thuận mắt chế độ cũ, nên vào năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), tháng 5, quyết định chế định chế độ quan mũ mới. Thái Tông theo lời Hoạn giám Lương Đăng, sử dụng chế độ đang rất thịnh hành khi ấy là nhà Minh (trước đó Triều Tiên đã dùng), dùng mũ Phốc đầu và Ô Sa, áo bào cổ tròn, nhưng vẫn chưa chính thức dùng Bổ tử.
*Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ đầu tiên “Hồng Bàng Thị kỷ”, khẳng định người An Nam là con cháu Thần Nông Thị, một trong Tam Hoàng thời thượng cổ Trung Hoa. Thần Nông Thị còn gọi “Viêm Đế”, cùng Hoàng Đế được người Trung Hoa hiện đại xem là tổ tiên, gọi là “Viêm Hoàng tử tôn”.
*Nhân vật Kinh Dương vương có từ Liễu Nghị truyện thời Đường.
*Xây dựng triều đại Hùng vương, từ tên gọi, quan vị, tước vị, không cái nào là không mô phỏng cung đình Trung Hoa. Ngầm ý đây là sản phẩm tưởng tượng của người thời Trần-Hồ.
*So sánh với quân vương Trung Hoa. Như Lý Thái Tông thì: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông”. Khi nhường ngôi cho Trần Thái Tông, trong chiếu của Lý Chiêu Hoàng có đoạn:”... dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được...”. Ngay cả vị Lê Thánh Tông đầy tự hào của nhà Lê Sơ cũng: “...dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được...”
*Tân Mão (1471), Hồng Đức năm thứ 2, Lê Thánh Tông quyết định sử dụng quy định rất tiến bộ của nhà Minh: Bổ tử (khi đó vẫn còn được gọi là Hung bối). Mở ra thời kì mà ta thấy trên các quan phục, có một miếng hình vuông trang trí hình thêu chim hoặc thú, đó là theo quy định phân cấp Bổ phục của nhà Minh. Lúc này, quan lại An Nam, Triều Tiên và nhà Minh đều đồng dạng, không muốn nói là như nhau, chỉ khác ở chi tiết độ cao của mũ, hình thêu mà thôi.
*Lê trung hưng, thiên hạ đại loạn, quy chế áo mũ cũng loạn không kém. Năm Bảo Thái thứ 2 (1721), Tham tụng Nguyễn Công Hãn phải đi Đại Thanh, tìm mua lại chế độ nhà Minh để đặt định cho đúng đắn. Từ đó, quy chế Lê trung hưng mới ổn định, và màu sắc lẫn họa tiết bắt đầu mô phỏng theo những dạng thức phổ biến thời Minh mạt Thanh sơ. Khi này, các quan viên ngoài áo mũ hầu Lê Đế, còn phải có thêm 2 bộ hầu Trịnh vương khi nghị sự và khi tiếp khách sứ thần từ phương khác.
*Nhà Nguyễn, chế độ hưng thịnh, dù quy định và kiểu dáng đã hoàn toàn khác biệt trước đó như Lý-Trần-Lê (những triều đại mô phỏng cực giống Trung Hoa), cũng đã phải dùng tham khảo từ “Tam tài đồ hội” của Trung Hoa để quyết định chế độ y phục. Không chỉ vậy, Gia Long Đế, rồi Minh Mạng Đế vốn bài trừ xuất xứ của Mãn Thanh, cũng đã phải quyết định dùng nhiều luật lệ và quy định quan tước của họ, vì nhà Thanh đã đạt đến sự hoàn thiện lớn trong việc tổ chức quản lý nhà nước lúc này.
* Lang trung Lễ bộ Lý Văn Phức trong thời kì nhậm chức cho nhà Nguyễn đã từng được cử sang Đại Thanh. Khi ấy, ông thấy người Thanh viết bốn chữ lớn [Việt Di hội quán; 越夷會館] thì tỏ ra không vui, trách mắng quan Quán bạn và khiến họ phải xé 4 chữ ấy đi rồi mới vào. Ông viết “Biện di luận” trong tập “Chu nguyên tạp vịnh thảo” của mình: ”Nước Việt ta là phường ấy chăng? Nước Việt ta không phải chúng vậy, mà là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, bậc thánh Trung quốc thời cổ vậy [...] Bàn về phép trị nước thì noi Nhị đế Tam vương, bàn về đạo thống thì noi Lục kinh Tứ sử, coi Khổng Mạnh là nhà, coi Chu Trình là cửa. [..] Chiêu hiền đãi sĩ, ấy khoa cử Hán Đường vậy. Đai rộng mũ cao, ấy y phục Tống Minh vậy. Cứ vậy mà suy, đại để như thế. Xét, đến vậy mà vẫn gọi là di thì ta chẳng biết thế nào mới là Hoa vậy.”
*Thanh triều Khâm sứ Lao Sùng, “Tập mĩ thi văn” trung “Nam quốc phong nhã thống biên tự” nhận xét: “Gần gũi Trung Hạ, tôn sùng Nho giáo, yêu chuộng thi thư, cùng được coi là đất thanh danh văn vật, ắt phải nói đến hai nước Triều Tiên và Việt Nam.”
Nhận xét
Đăng nhận xét